Cá diêu hồng hay cá điêu hồng hay còn gọi là cá rô phi đỏ (danh pháp khoa học: Oreochromis sp.) là một loài cá nước ngọt thuộc họ Cá rô phi (Cichlidae) có nguồn gốc hình thành từ lai tạo. Thuật ngữ diêu hồng hay điêu hồng được xuất phát từ việc dịch từ tiếng Trung Quốc. Ở Việt Nam, người dân bản xứ còn gọi cá diêu hồng là cá rô vì chúng có hình dạng và màu sắc giống nhau.
Cá diêu hồng thực chất là "con lai" của cá rô phi đen, thịt của hai con cá này có thành phần chất dinh dưỡng như nhau. Cá diêu hồng được người Trung Quốc phát hiện và phổ biến ở Việt Nam đặc biệt là được nuôi khá phổ biến ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng nên giá bán cao hơn cá rô phi đen.
Giá...
Giá...
Giá...
Giá...
Giá...
Giá...
Giá...
Giá...
Giá...
Giá...
Giá...
Giá...
Giá...
Giá...
Cá rô phi hồng có thể sống được ở nước ngọt, nước lợ và nước mặn (chịu được độ mặn dưới 28%o. Cá nuôi ở nhiệt độ bình thường 20-30oC, dưới 15-18oC cáá không ăn và có hiện tượng chết, pH 5-8,5.
- Nuôi trên ao: Diện tích ao, hồ nuôi nên nhỏ hơn 7.000m2; độ sâu 1,5- 2m2, có nguồn nước sạch, dồi dào, có nguồn nước vào, ra. Chất lượng nước tốt, không bị ô nhiễm, không nuôi chung với các loại cá ăn thịt khác (cá chuối, nheo, trê...). Mật độ cá phụ thuộc vào môi trường của ao: với ao bình thường không sục khí, 1ha thả 13.000- 15.000 con. Với ao tiêu thoát nước tốt, có thiết bị sục khí, 1ha thả 20.000-25.000 con. Thức ăn dinh dưỡng: ở các thời kỳ phát triển khác nhau, nhu cầu dinh dưỡng có khác nhau. Từ cá bột đến cá giống cần protit 30- 35%; cá trưởng thành, cá bố mẹ cần 28- 32%. Chất béo 6- 12%, lyzin 2-3%, Ca 1,5- 2,5%, xenluco dưới 6%. Hệ số thức ăn 2,4kg/kg cá thịt. Thời gian nuôi từ 120-150 ngày đạt 0,5 - 0,7kg/con, đạt 8-10 tấn/ha. - Nuôi bè, lồng: có thể nuôi ở hồ rộng, sông. Hồ sâu hơn 4m, sông sâu hơn 3m, nước lưu thông chậm. Kích thước lồng 2x2x1,5m sâu. Mật độ cá 2.000 con/lồng. Ở sông môi trường nước tốt 2.500-3.000 con/lồng. Năng suất đạt 1- 1,5 tấn/lồng, ở sông đạt 1,8-2 tấn/lồng.
Cá rô phi đỏ hay còn gọi là cá điêu hồng (Red Tilapia) hiện đang được nuôi khá phổ biến ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, mang lại giá trị kinh tế cao. Những đặc điểm sinh học cơ bản trong điều kiện thả nuôi được xác định như sau: về dinh dưỡng là loài cá ăn tạp các chất như: mùn bả hữu cơ, tảo, ấu trùng côn trùng, trong ao nuôi hoặc bằng bè, cá ăn thức ăn tự chế từ các phụ phẩm nông nghiệp, thức ăn viên (đạm từ 20 – 25%). Về sinh sản, cá rô phi đỏ là loài nắm đẻ, đẻ quanh năm, ấp trứng trong miệng. Có thể ương cá con trong ao hoặc trong chậu, lồng. Khi ương trong ao cần bón phân gây thức ăn tự nhiên để nuôi cá bột, còn khi ương trong lồng, chậu thì không cần bón phân nhưng phải thường xuyên vệ sinh chập, lồng. Môi trường nuôi chủ yếu trong ao hoặc lồng bè. Trong ao, sau 1 năm nuôi, cá đạt 200 – 500g/cn; khi nuôi bè cá lớn nhanh hơn (đạt trọng lượng 200 – 500g/con chỉ 7 – 8 tháng) và tỷ lệ hao hụt thấp.
Các bệnh do ngoại ký sinh trùng có tác động mạnh đến cá con trong quá trình ương. Thực tế cho thấy, nhiều cơ sở ương giống có tỉ lệ hao hụt từ 50 – 70% chủ yếu là do cá con bị bệnh đốm trắng (trùng quả dưa tấn công), bệnh do trùng mặt trời và tà quản trùng, bệnh do sán lá đơn chủ, bệnh do giáp xác ký sinh (Argulus và Ergasilus). Cách phòng trị: ao ương hoặc nuôi cá phải có sục khí. Khi phát hiện cá bị bệnh cần bón: Formol nồng độ 25 – 30ml/m3 trị thời gian dài và nồng độ từ 100 – 150ml/m3 nếu trị trong 15-30 phút; CuSO4 (phèn xanh) nồng độ 2-5g/10m3 trị thời gian dài và từ 20 – 50g/10m3 trị trong 15 – 30 phút, cách ngày trị một lần; muối ăn dùng để phòng và trị bệnh cho cá, nồng độ 1-3% trị thời gian dài và 1-2% trị trong 10-15 phút.
Bệnh do vi khuẩn Aemomas hydrophia hoặc Edwardsiellatarda gây ra. Cá có dấu hiệu toàn thân bị xuất huyết, hậu môn sưng lồi, bụng trương to, có dịch vàng hoặc hồng, đầu và mắt cá sưng và lồi ra. Bệnh thường xuất hiện ở cá rô phi đỏ nuôi bè. Biện pháp đề phòng: là tránh thả cá nuôi và hạn chế thay nước lúc giao mùa. Nên định kỳ bón khử trùng nơi cho ăn. cách trị là bón vôi và khử trùng nước, có thể trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn cá, tỷ lệ tuỳ theo tình trạng bệnh.
Thường xảy ra ở các ao, bè cho cá ăn thức ăn tự chế không được nấu chín, không đảm bảo chất lượng làm cá không tiêu hoá được thức ăn, bụng cá trương to, ruột chứa nhiều hơi. Cá bơi lờ đờ và chết rải rác. Biện pháp khắc phục: là kiểm tra chất lượng và thành phần thức ăn để điều chỉnh lại cho thích hợp. Nếu trường hợp nặng, thường xuyên có thể thay đổi thức ăn. Trong thức ăn nên bổ sung men tiêu hóa (các probiotic...)
Hiện tượng này thường xảy ra ở các ao, bè nuôi thâm canh với mật độ quá dày. Cá chết không có dấu hiệu bệnh lý, chỉ nổi lờ đờ và chết hàng loạt. Tỉ lệ cá chết lệ thuộc vào mật độ và chất lượng nước. Mật độ thích hợp để thả nuôi cá rô phi thịt là 100-150con/m3. nếu mật độ trên 200 con/m3 có thể gây chết đột ngột lúc giao nước hoặc sau những cơn mưa lớn.
Nguồn : NNVN